Lịch sử Hướng đạo

Khởi đầu

Tảng đá này trên Đảo Brownsea ghi dấu kỷ niệm trại Hướng đạo đầu tiên

Khi còn là một quân nhân, Baden-Powell đóng quân tại Ấn ĐộPhi châu trong thập niên 1880thập niên 1890. Từ thuở nhỏ, ông rất mê kỹ thuật thủ công về rừng và trinh sát quân đội, và vì thế ông hay chỉ cho các quân nhân của ông, như một phần huấn luyện, cách thế nào để tồn tại và mưu sinh trong hoang dã. Ông nhận thấy rằng việc này đã làm cho quân nhân của ông phát triển tính độc lập, hơn là theo lệnh các người chỉ huy một cách mù quáng[1].

Khi thế kỷ XIX trôi đi, kỹ thuật Hướng đạo bắt đầu được nhiều bộ phận của các lực lượng quân sự áp dụng khi mà cách chiến đấu trong chiến tranh và trong các trận đánh đã thay đổi. Trinh sát viên Mỹ, Frederick Russell Burnham đã mang kỹ thuật Hướng đạo sang Phi Châu và trong Đệ Nhị Chiến tranh Matabele ông đã giới thiệu nó cho Robert Baden-Powell, người sáng lập ra phong trào Hướng đạo.[2] Baden-Powell trước tiên bắt đầu hình thành ý tưởng của ông cho một chương trình huấn luyện thanh niên về kỹ thuật Hướng đạo trong khi thực hiện nhiệm vụ trinh sát với Burnham tại Matobo Hills, Matabeleland (hiện tại là một phần của Zimbabwe).

Tại Nam Phi trong Đệ Nhị Chiến tranh Boer, Baden-Powell bị bao vây trong một thị trấn nhỏ tên Mafeking bởi một đạo quân Boer lớn hơn rất nhiều[3]. Đội Thiếu sinh quân Mafeking là một nhóm thiếu niên trợ giúp quân đội bằng cách đưa tin tức để các quân nhân rảnh tay thi hành nhiệm vụ quân sự và cũng giữ cho các thiếu niên bận rộn trong lúc bị bao vây lâu ngày. Đội thiếu sinh quân làm việc rất tốt, giúp bảo vệ được thị trấn (1899–1900), và họ đã là một trong các nhân tố gợi cảm hứng cho Baden-Powell để thành lập Hướng đạo[4][5][6]. Mỗi thành viên của đội thiếu sinh quân nhận được một huy hiệu có hình mũi kim la bàn và đầu giáo. Biểu tượng của huy hiệu này giống như hình hoa bách hợp mà sau này Hướng đạo lấy làm biểu tượng quốc tế của mình. Tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland dân chúng theo dõi cuộc giằng co của ông để giữ thị trấn Mafeking qua báo chí, và khi cuộc bao vây bị phá vỡ, Baden-Powell trở thành một anh hùng quốc gia. Chuyện này làm tăng giá bán một sách hướng dẫn nhỏ ông viết về trinh sát quân sự tên Aids to Scouting (Trợ giúp trinh sát). Khi trở về Anh, ông nhận thấy rằng có rất nhiều trẻ em tỏ ra thích thú với quyển sách này mà cũng được dùng bởi các giáo viên và các tổ chức thanh thiếu niên[7]. Nhiều người đề nghị ông viết lại quyển sách này cho nam, đặc biệt là lúc ông đi thăm và kiểm tra Lữ đoàn Nam (Boys' Brigade). Lữ đoàn này là một phong trào thanh thiếu niên lớn, được huấn luyện theo chuẩn xác của quân đội. Baden-Powell nghĩ rằng việc này không mấy hấp dẫn và đề nghị rằng nó có thể phát triển rộng hơn nếu phương pháp trinh sát được áp dụng[8]. Ông đã nghiên cứu các phương thức khác mà nhiều phần đó được ông dùng cho Hướng đạo.

Tháng 7 năm 1906, Ernest Thompson Seton gởi cho Baden-Powell một bản thảo sách của ông tựa là The Birchbark Roll of the Woodcraft Indians (Văn bản Võ cây Birch của Người bản xứ Mỹ thạo Kỹ năng Rừng). Seton, một người Canada sinh tại Anh nhưng sống ở Hoa Kỳ, gặp Baden-Powell vào tháng 10 năm 1906, và họ có cùng ý tưởng về chương trình huấn luyện thanh thiếu niên[9][10][11]. Năm 1907 Baden-Powell viết một bản nháp có tên Boy Patrols mà Hướng đạo Việt Nam gọi là Hàng Đội. Cùng năm đó, để thử ý tưởng của mình, ông tập họp 21 bé trai đủ thành phần xã hội và tổ chức một cuộc cắm trại dài một tuần trong tháng 8 trên Đảo BrownseaDorset, Anh[12]. Phương pháp tổ chức của ông, bây giờ được biết với tên gọi là "patrol system" mà Hướng đạo Việt Nam gọi là "phương pháp hàng đội" và là một phần chính yếu trong đào luyện Hướng đạo, cho phép trẻ em nam tự tổ chức thành các nhóm nhỏ có một đội trưởng được bầu lên[13].

Tháng 8 năm 1907, Baden-Powell tiến hành một chuyến đi nói chuyện rộng khắp được nhà phát hành của ông là Arthur Pearson sắp xếp để giới thiệu cuốn sách sắp ra đời là Scouting for Boys (Hướng đạo cho nam). Ông không chỉ viết lại sách Aids to Scouting (Trợ giúp Trinh sát) mà còn bỏ đi các khía cạnh quân sự và chuyển đổi các kỹ thuật (chủ yếu là kỹ thuật tồn tại mưu sinh) sang cho các anh hùng phi quân sự: người sống hay làm việc trong rừng, các nhà thám hiểm, và sau đó là các thủy thủ và phi công[14]. Ông còn thêm vào những nguyên tắc giáo dục có chủ kiến (phương pháp Hướng đạo) bằng việc kéo dài trò chơi hấp dẫn để giáo dục tinh thần cá nhân.

Scouting for Boys đầu tiên xuất hiện tại Anh tháng 1 năm 1908 trong sáu kỳ dạng bán nguyệt san, và được xuất bản thành sách tại Anh cuối 1908. Cuốn sách này hiện nay đứng hạng tư trong các sách bán chạy nhất của mọi thời đại[15] và hiện nay được đông đảo mọi người xem là phiên bản đầu của Boy Scout Handbook (Sách Chỉ nam cho Hướng đạo)[16].

Lúc đó Baden-Powell có ý định để cho kế hoạch này được các tổ chức đã được thành lập sử dụng, nhất là Lữ đoàn Nam của sáng lập viên William A. Smith[17]. Tuy nhiên, vì ông và cả trò chơi ngoài trời đầy tính thám hiểm của ông viết quá nổi tiếng, các trẻ em nam liền họp thành các đội Hướng đạo và liên tục yêu cầu Baden-Powell giúp đỡ. Ông khuyến khích họ, và phong trào phát triển động lượng. Khi phong trào lớn mạnh, Hải Hướng đạo, Không Hướng đạo và các đơn vị đặc biệt được đưa vào chương trình.

Phát triển

Olave Baden-Powell

Phong trào nam Hướng đạo nhanh chóng tự xây dựng xuyên khắp Đế quốc Anh ngay sau khi sách Hướng đạo cho nam được xuất bản. Đơn vị hải ngoại được công nhận đầu tiên là ở Gibraltar năm 1908, theo sau đó không bao lâu là một đơn vị tại Malta. Canada trở thành lãnh thổ tự trị đầu tiên có chương trình Hướng đạo được thừa nhận, theo sau là Úc, New ZealandNam Phi. Chile là nước đầu tiên bên ngoài Đế quốc Anh có chương trình Hướng đạo được thừa nhận. Khoảng năm 1910, Argentina, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ấn Độ, Malaya, México, Hòa Lan, Na Uy, Nga, Thụy ĐiểnHoa Kỳ có nam Hướng đạo[18][19][20]. Cuộc diễn hành Hướng đạo đầu tiên, được tổ chức vào năm 1910 tại Cung điện Thủy tinhLuân Đôn, thu hút 10.000 nam và một số lượng nữ.

Chương trình ban đầu chỉ lấy đối tượng là nam tuổi từ 11 đến 18, nhưng khi phong trào lớn mạnh, nhu cầu trở nên rõ ràng là cần có chương trình huấn luyện người lãnh đạo và các chương trình cho nam nhỏ tuổi hơn, nam lớn tuổi hơn, và nữ. Các chương trình đầu tiên dành cho Ấu sinh và Tráng sinh được thực hiện vào cuối thập niên 1910. Các chương trình hoạt động độc lập cho đến khi được chính thức công nhận bởi tổ chức Hướng đạo quốc gia quê nhà của mình. Tại Hoa Kỳ, nỗ lực xây dựng chương trình Ấu sinh bắt đầu vào đầu năm 1911, nhưng mãi đến năm 1930 mới được công nhận chính thức[20][21][22][23].

Nữ cũng mong muốn trở thành bộ phận của phong trào ngay khi phong trào mới bắt đầu. Robert Baden-Powell và em gái mình là Agnes Baden-Powell đã giới thiệu Nữ Hướng đạo vào năm 1910, một phong trào song song dành cho nữ. Agnes Baden-Powell trở thành chủ tịch đầu tiên của Nữ Hướng đạo khi mới được thành lập vào năm 1910, theo yêu cầu của các bé gái tham gia cuộc "Diễn hành Cung điện Thủy tinh". Năm 1914, bà khởi động "Nữ Ấu sinh" cho các em gái nhỏ tuổi hơn. Bà rời chức vụ chủ tịch Nữ Hướng đạo năm 1920 nhường lại cho vợ của Robert Baden-Powell là Olave Baden-Powell, được phong chức Nữ Trưởng Hướng đạo (cho Anh) năm 1918 và Nữ Trưởng Hướng đạo Thế giới vào năm 1930. Vào lúc đó, người ta luôn muốn các bé gái sinh hoạt riêng với các bé trai vì đó là tiêu chuẩn xã hội lúc bấy giờ. Vào thập niên 1990, hai phần ba tổ chức Hướng đạo thuộc Tổ chức Phong trào Hướng đạo Thế giới (World Organization of the Scout Movement) trở thành đồng giáo dục (co-educational)[24].

Trại Họp bạn Hướng đạo Thế giới lần thứ nhất tháng 8 năm 1920 tại Luân Đôn, Anh.

Baden-Powell không thể nào một mình đảm nhiệm vai trò cố vấn cho toàn thể các nhóm yêu cầu ông giúp đỡ. Các trại huấn luyện huynh trưởng Hướng đạo đầu tiên được tổ chức tại Luân Đôn năm 1910 và tại Yorkshire năm 1911. Baden-Powell muốn công việc huấn luyện phải thực tế như có thể làm được để khuyến khích những người lớn khác đảm nhận vai trò lãnh đạo, vì thế khóa huấn luyện Bằng Rừng (Wood Badge) được phát triển để công nhận việc thụ huấn lãnh đạo cho người lớn. Sự phát triển huấn luyện bị trì hoãn vì Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì vậy khóa huấn luyện Bằng Rừng đầu tiên không thể thực hiện được cho đến năm 1919[25]. Bằng Rừng được dùng bởi các hội Hướng đạo nam và các hội Hướng đạo đồng giáo dục (môi trường giáo dục có nam và nữ) tại nhiều quốc gia. Công viên Gilwell gần Luân Đôn được mua vào năm 1919 trên danh nghĩa Hội Hướng đạo và dùng làm nơi huấn luyện người lớn và cũng là nơi cắm trại Hướng đạo[26]. Baden-Powell viết một cuốn sách có tên là Hướng dẫn vào nghề trưởng Hướng đạo để giúp huynh trưởng Hướng đạo, và viết những sách chỉ nam khác để sử dụng trong các khía cạnh mới lạ khác của Hướng đạo như Ấu nam và Ấu nữ. Một trong những khía cạnh mới lạ đó là Rovering to Success (Đường thành công) được viết cho Hướng đạo ngành Tráng (Rover Scout) năm 1922. Có một phạm vi rất rộng lớn về việc huấn luyện huynh trưởng Hướng đạo hiện hữu trong năm 2007, từ căn bản đến chi tiết, bao gồm huấn luyện Bằng Rừng.

Những ảnh hưởng

Tổng thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge chào đón 1500 nam Hướng đạo sinh hành hương hàng năm về Tòa nhà Quốc hội năm 1927

Các nhân tố quan trọng trong Hướng đạo truyền thống có nguồn gốc từ sự huấn luyện quân sự và giáo dục của chính Baden-Powell. Ông là một tướng quân hồi hưu 50 tuổi của quân đội khi ông thành lập Hướng đạo, và những ý nghĩ cách mạng của ông đã gây tác động đến hàng ngàn thanh thiếu niên trong mọi tầng lớp xã hội dấn thân vào các hoạt động mà đa số chưa từng nghĩ đến trước đây. Các tổ chức tương ứng trong Thế giới nói tiếng Anh (English-speaking world) là Lữ đoàn Nam và cánh tả (left-wing), Hội Woodcraft Folk phi quân sự; tuy nhiên, các tổ chức đó không thể nào sánh với sự phát triển và vươn tới của Hướng đạo[27].

Các khía cạnh thực tiễn của Hướng đạo từ lâu bị chỉ trích là quá quân sự[28]. Đồng phục kiểu quân đội, phù hiệu cấp bậc, lễ chào cờ và đội kèn trống được rộng rãi chấp nhận vào những năm đầu bởi vì đó là một phần bình thường của xã hội, nhưng sau đó bị bãi bỏ cả trong Hướng đạo và xã hội.

Ảnh hưởng của địa phương cũng là một phần đáng kể của Hướng đạo. Bằng việc nhận lấy và sửa đổi cho phù hợp những ý tưởng địa phương, Hướng đạo đã có thể tìm được sự chấp nhận trong nhiều nền văn hóa đa dạng rộng lớn. Tại Mỹ, Hướng đạo dùng những hình ảnh được vẽ từ những kinh nghiệm thời khai phá biên cương. Nó bao gồm không chỉ các bộ sưu tập huy hiệu của mình có hình thú vật cho Ấu sinh Hướng đạo mà còn có sự nhận định cơ bản rằng chính người bản xứ châu Mỹ (American Indian) là gần gũi với thiên nhiên hơn và vì thế có những kỹ xảo tồn tại trong hoang dã đặc biệt mà cần được dùng trong chương trình huấn luyện. Đối lại, Hướng đạo tại Anh sử dụng các hình vẽ từ bán lục địa Ấn Độ, vì vùng đó là tiêu điểm nổi bật trong những năm đầu của Hướng đạo. Kinh nghiệm cá nhân của Baden-Powell tại Ấn Độ đã dẫn dắt ông tiếp nhận The Jungle Book (Hướng đạo Việt Nam dùng sách này với tên gọi là Sách Rừng Xanh) của Rudyard Kipling như tài liệu chính cho Ấu sinh Hướng đạo; thí dụ, tên được sử dụng cho huynh trưởng ngành Ấu là Akela, chính là tên của người lãnh đạo bầy sói trong The Jungle Book[29].

Tượng điêu khắc dựng lên vào năm 1982 để kỷ niệm Trại Họp bạn năm 1979 tại Perry Lakes ở Tây Úc và 75 năm Hướng đạo

Hướng đạo dường như cũng lấy cảm hứng từ vai trò rất ư là lãng mạn và quan trọng mà các trinh sát quân sự thực hiện để quan sát tình hình quân địch trong thời chiến. Thực vậy, Baden-Powell viết sách huấn luyện quân sự ban đầu là Aids To Scouting (trợ giúp trinh sát) bởi vì ông nhận thấy nhu cầu cần huấn luyện cải thiện thêm cho các trinh sát quân đội Anh, đặc biệt trong kỹ năng sáng kiến, tự chủ và quan sát. Tính phổ biến của cuốn sách trong các nam thiếu niên đã làm ông ngạc nhiên. Khi ông lấy sách này để dùng cho Scouting for Boys (Hướng đạo cho nam), dường như tự nhiên phong trào liền lấy tên Scouting (Hướng đạo) và Boy Scouts (nam Hướng đạo)[30].

"Bổn phận đối với Thượng đế" (Duty to God) là nguyên tắc của Hướng đạo, mặc dù nó được sử dụng rất khác nhau tại nhiều quốc gia khác nhau[31][32]. Hội Nam Hướng đạo Mỹ (Boy Scouts of America - BSA) giữ một quan điểm rất cương quyết, không chấp nhận chủ nghĩa vô thần (atheism)[33]. Hội Hướng đạo tại Anh đòi hỏi các huynh trưởng "thi hành chính sách tôn giáo của hội đề ra" mà theo hội là khuyến khích thành viên phải "thuộc một bộ phận tôn giáo nào đó"[34]. Hướng đạo Canada (Scouts Canada) định nghĩa bổn phận đối với Thượng đế rộng rãi hơn với cụm từ "gắn chặt vào các nguyên tắc tâm linh" và không có chính sách cấm các người theo chủ nghĩa vô thần[35].